Chuyển đến nội dung chính

Tại sao tuyến tụy không tiết insulin lại gây ra bệnh đái tháo đường (tiểu đường)?

a. Tại sao tuyến tụy không tiết insulin lại gây ra bệnh đái tháo đường (tiểu đường)? b. Những người bị bệnh đái tháo đường có pH máu thấp hơn hay cao hơn người bình thường? Giải thích. a. Thiếu insulin, glucose không vào được tế bào, glucose không được chuyền hóa thành glicogen dư trữ ở gan, dẫn đến nồng độ glucose trong máu cao thường xuyên và các tế bào thiếu glucose dẫn đến bệnh đái tháo đường. b. Khi bị bệnh đái tháo đường glucose vào tế bào ít. Do nguồn cơ chất cung cấp năng lượng chủ yếu là glucose không đáp ứng đủ, nên các tế bào cơ thể sử dụng nguồn cơ chất là lipid. Tăng phân giải lipid tạo ra nhiều axit hữu cơ dẫn đến pH máu giảm.

Lại khổ với "bệnh hình thức"

Dạo gần đây, cứ sau một năm học người giáo viên phải viết bản tự đánh giá bản thân, trong đó bất cứ hoạt động nào cũng phải có minh chứng. Nếu không có minh chứng xem như không hoàn thành công việc đã làm. Chuyện dở khóc dở cười nảy sinh từ đây…

Khóc với việc xác nhận

Đầu tiên, ở phần đánh giá tư tưởng, nhận thức, việc chấp hành chính sách, đường lối, pháp luật tốt phải có minh chứng của khu phố nơi ở qua giấy xác nhận có dự họp tổ, tham gia đóng góp cho địa phương, hoạt động phong trào, đóng đủ các loại thuế, phí ở địa phương như nhà đất, giao thông đường bộ… Điều cần bàn là quá khó để chứng minh chấp hành như thế nào là trung bình và như thế nào là xuất sắc.

Bên cạnh đó, giáo viên phải tự đánh giá về mối quan hệ với đồng nghiệp và học sinh, kèm theo là minh chứng. Nhưng ai sẽ viết giấy chứng nhận này cho giáo viên? Đồng nghiệp thì có thể viết lời nhận xét tương đối thoải mái, nhưng học sinh lẽ nào lại có thể viết và xác nhận thầy cô có ứng xử tốt với các em? Và sẽ cần bao nhiêu giấy xác nhận từ đồng nghiệp và học sinh mới đạt chuẩn tốt đây?

Đối với việc phối hợp cùng gia đình và cộng đồng trong giáo dục học sinh, thầy cô cần có minh chứng bằng sổ ghi hoạt động cụ thể về thời gian địa điểm, và tất nhiên phải có chữ ký của phụ huynh và các đoàn thể khi cần phối hợp. Khó nhất là việc tiếp cận kế hoạch giáo dục của địa phương.

Trên thực tế quả là không dễ để thầy cô có được các văn bản của chính quyền địa phương về công tác này. Một khi biết thầy cô cần có cái gì đó để “làm chứng” là đến gặp gỡ phụ huynh, một số phụ huynh của các em học sinh “có vấn đề với trường” không ký xác nhận, nhà trường xem như thầy cô ấy chưa hoàn thành công việc…

Nếu việc bảo đảm chương trình, kiến thức môn học, sử dụng phương tiện dạy học… có thể có minh chứng qua giáo án, qua lịch báo giảng và công tác thanh tra chuyên môn của cấp trên thì việc xây dựng môi trường học tập, giáo dục qua các môn học, qua hoạt động trong cộng đồng… muốn có minh chứng là không dễ dàng.

Sao cứ phải có bằng chứng bằng văn bản?

Việc giáo dục học sinh là một quá trình và bằng nhiều hình thức, không thể đòi hỏi tất cả đều có minh chứng bằng văn bản. Việc để phụ huynh, học sinh, chính quyền cơ sở và các đoàn thể có văn bản xác nhận các hoạt động của người thầy là lợi bất cập hại.

Để hoàn tất bản đánh giá cá nhân, thầy cô phải vất vả đi tìm minh chứng bên ngoài nhà trường sau khi đã hoàn thành nhiệm vụ ở trường, quả tình tạo nên một bầu không khí nặng nề. Thực tế khi không có minh chứng bên ngoài trường ấy cũng không thể đánh giá giáo viên không hoàn thành nhiệm vụ vì năng lực chuyên môn, kết quả học tập rèn luyện của học sinh mới là minh chứng hùng hồn nhất.

Mới đây có nơi yêu cầu thầy cô phải nộp khai sinh của cá nhân để làm minh chứng ngày tháng năm sinh, cha mẹ, nơi sinh và các thông tin liên quan… là đúng sự thật. Nếu khai có vợ, có chồng phải có minh chứng là giấy đăng ký kết hôn, có con phải có khai sinh kèm theo…

Nhiều trường hợp thầy cô lớn tuổi không còn khai sinh của cá nhân phải vất vả đi làm khai sinh lại để chứng minh… mình có ngày sinh đàng hoàng. Trong trường hợp khó khăn thì đành nộp chứng minh nhân dân thay thế.

Bằng tốt nghiệp đúng là minh chứng cho kết quả học tập, trình độ đào tạo của mỗi người, nhưng đòi minh chứng là giấy xác nhận từng là sinh viên của nơi đào tạo đúng theo từng năm đã học quả là khó hiểu, thậm chí là điều quá đáng.

Nói chung, bất kỳ hoạt động, chi tiết nào của cá nhân trong đời sống cũng cần phải có minh chứng, nhưng vấn đề là ai, cơ quan nào làm việc đó và làm như thế nào để không gây tổn thương một con người.

Đòi tất cả phải có minh chứng nhưng thực tế chứng minh là điều không thể và cấp quản lý cũng chẳng thể làm gì thì cứ một mực đòi để làm gì? Nhìn vào ai cũng hiểu đó là một căn bệnh hình thức, vậy sao lại để nó tồn tại giữa chúng ta?
-Nguyễn Trung Kiên-

Nhận xét

ĐỀ XUẤT RIÊNG CHO BẠN

Tính số nhiễm sắc thể, số crômatit và số tâm động qua các kì của nguyên phân và giảm phân

Loài ong mật có bộ NST lưỡng bội 2n=32. Hợp tử của loài trải qua nguyên phân. Hãy cho biết có bao nhiêu NST, crômatit, tâm động có trong một tế bào qua mỗi kì của quá trình nguyên phân? Để giải bài tập sinh học trên trước hết các bạn cần nhớ một số vấn đề sau: NST nhân đôi ở kì trung gian (pha S) trở thành NST kép, tồn tài trong tế bào đến cuối kì giữa. Vào kì sau, NST kép bị chẻ dọc tại tâm động, tách thành 2 NST đơn, phân li đồng đều về 2 cực tế bào. Crômatit chi tồn tại ở NST kép, mỗi NST kép có 2 crômatit. Mỗi NST dù ở thể đơn hay kép đều mang một tâm động. Vậy có bao nhiêu NST trong tế bào thì sẽ có bấy nhiêu tâm động. Do vậy, gọi 2n là bộ NST lưỡng bội của loài, số NST, số crômatit, số tâm động có trong một tế bào qua mỗi kì quá trình nguyên phân như bảng sau: Kì trung gian Kì đầu Kì giữa Kì sau Kì cuối Số NST đơn 0 0 0 4n 2n Sô NST kép 2n 2n 2n 0 0 Số crômatit 4n 4n 4n 0 0 Số tâm động 2n 2n 2n 4n 2n T

Chu kỳ tế bào, quá trình nguyên phân và giảm phân

Trong chương trình sinh học lớp 10 thì nội dung về chu kỳ tế bào, nguyên phân và giảm phân các em cần học kỹ và làm bài tập liên quan. Đây là kiến thức hết sức quan trọng để có thể học tiếp những kiến thức liên quan ở lớp tiếp tiếp theo. Cơ chế nguyên phân Cơ chế giảm phân Kiến thức các em đọc ở sách giáo khoa sinh học lớp 10, ở phần này tác giả chỉ trích một số câu hỏi thường gặp trong nội dung chuyên đề chu kỳ tế bào, quá trình nguyên phân và giảm phân. Câu 1. Trình bày khái niệm và nêu những giai đoạn của chu kì tế bào? – Chu kì tế bào là khoảng thời gian giữa 2 lần phân bào liên tiếp. Một chu kì tế bào bao gồm kì trung gian và quá trình nguyên phân. Kì trung gian gồm ba pha theo thứ tự là G1 , S, G2, trong đó pha G1 là thời kì sinh trưởng chủ yếu của tế bào; pha S diễn ra sự nhân đôi của ADN và nhiễm sắc thể. Kết thúc pha S, tế bào sẽ chuyển sang pha G2, lúc này tế bào sẽ tổng hợp tất cả những gì còn lại cần cho quá trình phân bào. Nguyên phân diễn ra ngay sau pha G2

Tính số loại và tỉ lệ kiểu gen, kiểu hình ở đời con

Vận dụng toán xác suất để giải nhanh các bài tập sinh học phần quy luật phân li độc lập như: xác định số loại kiểu gen, kiểu hình ở đời con hay tỉ lệ kiểu gen, kiểu hình ở đời con trong các phép lai khi biết kiểu gen của bố mẹ mà không cần viết sơ đồ lai. Theo quy luật phân li độc lập ta hiểu rằng: một phép lai có n cặp tính trạng, thực chất là n phép lai một cặp tính trạng. Như vậy khi đề bài cho biết kiểu gen có bố mẹ và tuân theo quy luật phân li độc lập thì ta chỉ cần dung toán xác suất để xác định nhanh số loại cũng như tỉ lệ kiểu gen, kiểu hình ở đời con theo quy tắc sau: Tỉ lệ KG khi xét chung nhiều cặp gen bằng các tỉ lệ KG riêng rẽ của mỗi cặp tính trạng nhân với nhau. Số KH khi xét chung nhiều cặp tính trạng bằng số KH riêng của mỗi cặp tính trạng nhân với nhau. Ví dụ:  Cho biết A - hạt vàng : a- hạt xanh; B- hạt trơn : b - hạt nhăn; D - thân cao : d- thân thấp. Tính trạng trội là trội hoàn toàn. Phép lai P: AabbDd x AaBbdd  sẽ cho số loại và tỉ lệ kiểu g